Nghị định số 23 đã có nhiều quy định chi tiết, cụ thể bảo đảm thuận tiện cho cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực. Vì vậy, cho đến nay, việc triển khai thi hành các quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã dần đi vào nề nếp. Tuy nhiên, sauhơn 5 tháng triển khai thi hành, các cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực cũng đã gặp phải một số vướng mắc liên quan đến một số quy định trong Nghị định cần tiếp tục có những hướng dẫn cụ thể, như:
- Về những quy định chung, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã có nhiều điểm mới, bảo đảm cải cách hành chính theo hướng phân cấp, giảm giấy tờ trong thủ tục chứng thực, đặc biệt Nghị định số 23/2015/NĐ-CP đã quy định chung một thủ tục đơn giản về chứng thực hợp đồng. Chính vì sự đơn giản trong thủ tục, nên một số địa phương đã tự quy định thêm giấy tờ (như việc một số cơ quan thực hiên chứng thực đã yêu cầu phải có Giấy khai sinh để chứng minh quan hệ với người để lại di sản). Bên cạnh đó, việc sử dụng mẫu lời chứng, lấy số chứng thực, lưu văn bản chứng thực cũng chưa được thực hiện thống nhất giữa các địa phương.
- Về chứng thực bản sao từ bản chính những giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận, theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì “Trong trường hợp bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật trước khi yêu cầu chứng thực bản sao; trừ trường hợp đươc miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại”. Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều loại giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp cho cá nhân, được sử dụng lặp đi, lặp lại nhiều lần như: Hộ chiếu, Thẻ thường trú, Thẻ cư trú, Văn bằng, Chứng chỉ, bằng lái xe…nếu hợp pháp hóa lãnh sự trực tiếp lên những loại giấy tờ này sẽ làm ảnh hưởng đến giá trị sử dụng của những giấy tờ đó sau này.
- Việc chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được lập bằng tiếng nước ngoài, Khoản 3 Điều 25 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định không được chứng thực chữ ký nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực ký vào có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân. Khoản 4 Điều này cũng quy định không được chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản có nội dung là hợp đồng, giao dịch…Quy định này không phát sinh vướng mắc nếu giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực sẽ ký vào được lập bằng tiếng Việt, tuy nhiên, nếu giấy tờ, văn bản này được lập bằng tiếng nước ngoài thì người thực hiện chứng thực khó có thể hiểu được nội dung của giấy tờ, văn bản đó để giải quyết hay từ chối chứng thực.
- Về giấy tờ chứng minh khi “thông thạo” ngôn ngữ cần dịch, theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì người dịch phải có bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngoài cần dịch hoặc có bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với thứ tiếng nước ngoài cần dịch. Đối với ngôn ngữ không phổ biến mà người dịch không có bằng cử nhân ngoại ngữ, bằng tốt nghiệp đại học theo quy định thì phải thông thạo ngôn ngữ cần dịch. Tuy nhiên, khi triển khai quy định này, hầu hết các Phòng Tư pháp đều băn khoăn về việc lấy căn cứ nào, giấy tờ gì để chứng minh rằng người dịch đó “thông thạo” ngôn ngữ cần dịch.
- Về chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch, Điều 38 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định về chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực. Tuy nhiên, quy định này chỉ mang tính nguyên tắc, chưa có thành phần hồ sơ mà người yêu cầu chứng thực phải nộp, cũng như chưa có quy định về trình tự, thủ tục giải quyết. Do đó, gây khó khăn cho cơ quan thực hiện chứng thực khi triển khai quy định này trên thực tiễn.
Do đó, để bảo đảm kịp thời đáp ứng yêu cầu của người dân, cũng như cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực; đồng thời, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật thì việc xây dựng và ban hành Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP là thực sự cần thiết./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét