CÔNG CHỨNG XUÂN LỘC

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Đại hội Hội công chứng viên lần thứ I

         Sáng 19-12, Hội công chứng viên tỉnh Đồng Nai tổ chức Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2015-2020.
Quang cảnh Đại hội
Quang cảnh Đại hội.
Hội công chứng viên tỉnh Đồng Nai hiện có 24 tổ chức hành nghề công chứng với 55 công chứng viên. Các tổ chức công chứng được phân bố đều khắp, cơ bản đáp ứng yêu cầu công chứng của các tổ chức và cá nhân trong tỉnh.
Đại hội đã bầu bà Nguyễn Thị Hồng Vân, công chứng viên Phòng Công chứng số 4 làm Chủ tịch Hội Công chứng viên tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ I (2015-2020).

Ngọc Liên

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

QUY ĐỊNH MỚI VỀ LỆ PHÍ CHỨNG THỰC

Ngày 12/10/2015, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 158/2015/TTLT-BTC-BTP quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch, thay thế Thông tư liên tịch số 92/2008/TTLT-BTC-BTP và Thông tư liên tịch số 62/2013/TTLT-BTC-BTP và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/11/2015. Mức thu lệ phí chứng thực được quy định cụ thể như sau:
1. Chứng thực bản sao từ bản chính: 2.000 đồng/trang. Từ trang thứ 03 trở lên thu 1.000 đồng/trang, nhưng mức thu tối đa không quá 200.000 đồng/bản.
2. Chứng thực chữ ký: 10.000 đồng/trường hợp (trường hợp được tính là một hoặc nhiều chữ ký trong một văn bản, giấy tờ).
3. Chứng thực hợp đồng, giao dịch:
- Chứng thực hợp đồng, giao dịch: 30.000 đồng/hợp đồng, giao dịch;
- Chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch: 20.000 đồng/hợp đồng, giao dịch;
- Sửa lỗi sai sót trong hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực: 10.000 đồng/hợp đồng, giao dịch.
Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định mới này áp dụng thống nhất cho tất cả các hợp đồng, giao dịch, không phân ra theo loại hợp đồng, giao dịch được chứng thực hoặc tài sản được chứng thực. Đối với cá nhân, hộ gia đình vay vốn tại tổ chức tín dụng để phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ pháp triển nông nghiệp, nông thôn thì không phải nộp lệ phí chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản./.
                                                                                                                                      Đình Khôi

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Chậm đổi bằng lái xe sang PET phải thi lại lý thuyết

Từ ngày 01/01/2016, Thông tư 58/2015/TT-BGTVT Quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ bắt đầu có hiệu lực thi hành.

bằng lái xe pet
Theo đó, Giấy phép lái xe bằng giấy bìa phải được chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET theo lộ trình sau:
- Giấy phép lái xe ô tô và giấy phép lái xe hạng A4: trước ngày 31/12/2016.
- Giấy phép lái xe không thời hạn (các hạng A1, A2, A3): trước ngày 31/12/2020.
Sau 06 tháng theo lộ trình chuyển đổi nêu trên, người có giấy phép lái xe bằng giấy bìa phải sát hạch lại lý thuyết để cấp lại giấy phép lái xe.
Điều 8. Điều kiện đối với người học lái xe
1. Là công dân Việt Nam, người nước ngoài được phép cư trú hoặc đang làm việc, học tập tại Việt Nam.
2. Đủ tuổi (tính đến ngày dự sát hạch lái xe), sức khỏe, trình độ văn hóa theo quy định; đối với người học để nâng hạng giấy phép lái xe, có thể học trước nhưng chỉ được dự sát hạch khi đủ tuổi theo quy định.
3. Người học để nâng hạng giấy phép lái xe phải có đủ thời gian lái xe hoặc hành nghề và số km lái xe an toàn như sau:
a) Hạng B1 (số tự động) lên B1: thời gian lái xe từ 01 năm trở lên và 12.000 km lái xe an toàn trở lên;
b) Hạng B1 lên B2: thời gian lái xe từ 01 năm trở lên và 12.000 km lái xe an toàn trở lên;
c) Hạng C, D, E lên FC: thời gian hành nghề 01 năm trở lên và 50.000 km lái xe an toàn trở lên;
d) Hạng B2 lên C, C lên D, D lên E; các hạng B2, D, E lên hạng F tương ứng: thời gian hành nghề từ 03 năm trở lên và 50.000 km lái xe an toàn trở lên;
đ) Hạng B2 lên D, C lên E: thời gian hành nghề từ 05 năm trở lên và 100.000 km lái xe an toàn trở lên.
4. Người học để nâng hạng giấy phép lái xe lên các hạng D, E phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tương đương trở lên.
Thanh Hữu

Công chứng tư ở Cần Thơ có nhiều vi phạm

(PL)- Sở Tư pháp TP Cần Thơ cho biết vừa ra 14 quyết định xử phạt sáu văn phòng công chứng (VPCC) trên địa bàn với tổng số tiền gần 60 triệu đồng.
Trước đó, Sở Tư pháp đã tổ chức đợt thanh tra hoạt động của các VPCC Ô Môn (quận Ô Môn), Miền Nam, Bình Thủy (quận Bình Thủy), Tây Đô (quận Cái Răng), Trần Mạnh Hùng và Cửu Long (quận Ninh Kiều). Qua đó đoàn thanh tra phát hiện nhiều vi phạm về thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch, như một số đơn vị đã chấp nhận CMND quá hạn (hơn 15 năm), chứng mua bán xe máy nhưng thiếu giấy xác nhận tình trạng hôn nhân... VPCC Tây Đô và Cửu Long chứng các giao dịch liên quan đến đất hộ gia đình lại thiếu thành viên trong hộ. Cả sáu VPCC khi công chứng hợp đồng thế chấp mà thiếu chữ ký từng trang của ngân hàng trong hợp đồng; VPCC Trần Mạnh Hùng công chứng một số văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế nhưng người khai nhận di sản không có giấy tờ chứng minh quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống với người để lại di sản.
Kết luận thanh tra cho rằng các sai phạm nêu trên xảy ra là có việc công chứng viên dễ dãi, nể nang với các ngân hàng, đồng thời hiện một số quy định còn chồng chéo, chưa rõ ràng...
NHẪN NAM

Chuyển hết công chứng nhà nước thành công chứng tư?

Nên cho phép chuyển nhượng các văn phòng công chứng tư.
Theo dự thảo Luật Công chứng sửa đổi, để tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức hành nghề công chứng thì cần chuyển hết các phòng công chứng nhà nước thành văn phòng công chứng tư. Tại hội thảo góp ý cho dự án do Hội Công chứng TP.HCM tổ chức vào chiều qua (4-3), bà Phan Thị Bình Thuận, Trưởng phòng Công chứng số 1, cho rằng quy định như vậy là cần thiết. “Các phòng công chứng hiện nay sở hữu đội ngũ nhân lực tốt, có kinh nghiệm và người dân tin cậy giống như những giá trị vô hình. Nếu chuyển sang tư thì sẽ tận dụng được các yếu tố này và tạo sự bình đẳng với công chứng tư. Tất nhiên, cần phải tính toán các vấn đề như trụ sở, biên chế, các khoản phí mà phòng công chứng vẫn đóng góp cho ngân sách nhà nước…” - bà Thuận nói.
Tuy nhiên, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính và Chủ tịch Hội Công chứng TP.HCM Phan Văn Cheo lại cho rằng nên để tồn tại song song hai mô hình như hiện nay. Nếu có chuyển thì cũng không nên chuyển hết mà chỉ ở những địa phương nào phù hợp và do UBND cấp tỉnh quyết định.
Một vấn đề khác dự thảo đưa ra là công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của giấy tờ được dịch trong hồ sơ công chứng. Bà Ngô Minh Hồng - nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, công chứng viên - nói luật nên quy định công chứng viên chỉ là người kiểm tra tính hợp pháp của giấy tờ sau khi đã được dịch ra tiếng Việt. “Không phải ai cũng biết nhiều ngoại ngữ mà chính người ký vào bản dịch đó phải chịu trách nhiệm về nội dung dịch của mình là đúng hay sai” - bà Hồng nói.
Về việc có nên cho phép chuyển nhượng các văn phòng công chứng tư hay không, ông Nguyễn Quang Thắng, Trưởng Văn phòng Công chứng quận 10, nói đây là xu hướng tất yếu. Theo ông Thắng, hiện chúng ta coi văn phòng công chứng tư là một sản nghiệp thì việc mua bán nó là đương nhiên. 
Đồng tình, ông Nguyễn Đức Chính nói chỉ nên chuyển nhượng văn phòng công chứng hoạt động dưới loại hình là doanh nghiệp tư nhân, còn công ty hợp danh thì không được do bị vênh với Luật Doanh nghiệp.
THANH TÙNG

Chuyển công chứng công sang tư: Dân bị ảnh hưởng gì?

(PL)- Từ nay đến năm 2020, Sở Tư pháp TP.HCM sẽ kiến nghị giữ lại ba, bốn phòng công chứng.
Thông tin một phòng công chứng (PCC, tổ chức công chứng công) của tỉnh Lâm Đồng được chuyển thành văn phòng công chứng (VPCC, công chứng tư) với giá nhận chuyển đổi là 1,8 tỉ đồng làm nhiều người thắc mắc: Vì sao phải chuyển đổi từ PCC sang VPCC? Người dân bị ảnh hưởng gì từ việc chuyển đổi này?...
Ông Huỳnh Văn Hạnh, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết: Theo Điều 21 Luật Công chứng thì trong trường hợp không cần thiết duy trì PCC, Sở Tư pháp sẽ lập đề án chuyển đổi PCC thành VPCC trình UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Việc chuyển đổi này nhằm mục đích tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, các địa phương chỉ thành lập PCC ở những địa bàn còn khó khăn, chưa có điều kiện xã hội hóa công chứng để giảm gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước. Tại thời điểm này, ngoài Lâm Đồng thì Cần Thơ cũng có hai PCC đã được phê duyệt đề án cho chuyển đổi.

Phòng Công chứng số 1 (TP.HCM), một trong những tổ chức công chứng nhà nước hoạt động rất hiệu quả. Ảnh: HTD
Cũng theo Luật Công chứng, VPCC được thành lập từ việc chuyển đổi PCC phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của PCC đó. Như vậy, người dân không có gì phải lo ngại về các hồ sơ của mình đã được công chứng trước đó tại các PCC bị giải thể.
Vậy tới đây, các PCC ở TP.HCM có thực hiện việc chuyển đổi như thế?
Với câu hỏi này, ông Huỳnh Văn Hạnh thông tin: “Khoản 1 Điều 6 Nghị định 29/2015 của Chính phủ có quy định: Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có từ năm PCC trở lên thì Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Sở Tài chính, Nội vụ, LĐ-TB&XH xây dựng kế hoạch chuyển đổi các PCC trình UBND cấp tỉnh phê duyệt. Do có bảy PCC nên TP.HCM thuộc trường hợp phải xây dựng kế hoạch chuyển đổi chung trình UBND TP phê duyệt, trên cơ sở đó có đề án chuyển đổi cho từng PCC”.
Ông Hạnh cho biết thêm: “Tuy nhiên, cần phải thấy rằng các PCC của TP.HCM hoạt động rất có hiệu quả, tạo được uy tín, thương hiệu, đặc biệt là từ năm 2009 đến nay, đã thực hiện cơ chế tự chủ toàn phần về tài chính. Hằng năm các đơn vị này đóng góp cho ngân sách khoảng 60-65 tỉ đồng, cao hơn rất nhiều so với nguồn thu từ thuế của các VPCC. Chính vì thế, trong thời gian từ nay đến năm 2020, Sở Tư pháp TP sẽ kiến nghị UBND TP và Bộ Tư pháp thực hiện chuyển đổi có lộ trình, xem xét cho phép giữ lại 3-4 PCC để có vai trò định hướng, chủ đạo cho hoạt động hành nghề công chứng trên địa bàn TP, là cơ sở, tiền đề cho Sở Tư pháp triển khai các vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng và thực hiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng”.
NT

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

Cách nhận biết và phân biệt cavet xe máy thật và giả

Cách nhận biết và phân biệt cavet xe máy thật và giả
Cách tốt nhất khi mua xe đảm bảo không mua nhầm là mua xe ngay chính chủ đứng tên, bảo chủ ra phòng công chứng chứng cho cái giấy ủy quyền là yên chí lớn. Nếu bạn mua xe qua nhiều đời chủ, xe không chính chủ thì không thể công chứng giấy ủy quyền. Chỉ có cách xem thật kĩ cavet coi thật hay giả, giữ càng nhiều giấy tờ photo của người đứng ra bán cho bạn ( CMND, hộ khẩu, bằng lái, thẻ SV, đăng kí kinh doanh nếu là cửa hàng bán xe gắn máy )
Nhằm giúp các bạn tránh được tình trạng mua nhầm xe giấy tờ giả. mình xinh đóng góp 1 chút kinh nghiệm như sau:
1. Thông thường giấy tờ giả thì cái font chữ sẽ khác so với cavet thật.
2. Những cavet từ năm 2000 về sau có những chỉ màu đỏ, nhỏ xíu và mỏng như con lăng quăng. Chịu khó nhìn sẽ thấy, cả mặt trước và sau đều có. Cavet xe máy giả thường không có.
3. Cavet thật Dùng Đèn cực tím ( loại soi tiền giả) sẽ hiện quốc huy rõ nét
4. Chữ lúc nào cũng thấp hơn số – là cavet thật ( nhìn chỗ 53V1-0586 nhé!)
5. Cavet từ năm 1996-2000 – phòng csgt-TT là đúng. Chữ NGHĨA trong CHXHCN VN đặt lệch vị trí
6. Nhìn kĩ các chữ đánh máy như TÊN CHỦ XE, ĐỊA CHỈ … có vết hằn sâu do là đánh máy chứ không phải như in vi tính
Cavet xe năm 2010
Cavet xe thật 2009
Cavet xe năm 2011
Cavet xe năm 2012
Hy vọng bài phân tích này giúp ích anh em có thêm ít kinh nghiệm phân biệt giấy tờ xe thật và giả

Giấy tờ giả "giỡn mặt" công chứng

[Giấy tờ giả "giỡn mặt" công chứng]
[Bài viết đã được đăng trên báo Pháp luật]
Ảnh của Hộp điểm chỉ - Hộp mực lăn tay - Máy soi giấy tờ thật giả.
Không chỉ người dân, mà nhiều công chứng viên cũng không thể phân biệt được đâu là hồ sơ thật, đâu là hồ sơ giả
Người đi mua nhà, đất... “nhắm mắt mua liều”, không thể phân biệt giấy tờ nào thật, giấy tờ nào giả; Công chứng viên thì nói: “Vừa chứng, vừa lo” vì xuất hiện không ít hồ sơ làm giả rất tinh vi, các giấy tờ tùy thân cũng không ngoại lệ - Đó là những gì chúng tôi vừa ghi nhận tại các tổ chức công chứng tại TP.HCM.
Phát hiện do cảm tính nghề nghiệp
Không ít người dân khi được hỏi “làm sao có thể biết hồ hơ của mình là thật hay giả”? Câu trả lời là không thể phân biệt, kể cả công chứng viên.
Một người dân nói vui, chẳng lẽ khi mua nhà chúng tôi phải mang hồ sơ đi trưng cầu giám định, mà việc này người dân không thể.
Tình trạng giả hồ sơ công chứng ở các tổ chức công chứng không phải là chuyện bây giờ mới có. Tuy nhiên, hiện tình trạng này đã đến mức báo động. Bởi giấy tờ bị làm giả xuất hiện tại các tổ chức công chứng ngày càng rất tinh vi, khó phát hiện.
Ông Nguyễn Quang Thắng, Trưởng Phòng công chứng số 1, TP.HCM, cho biết: ngày 14/4/2010, Văn phòng của ông phát hiện một bộ hồ sơ ủy quyền thế chấp định đoạt tài sản giữa ông Trần Văn S và bà Lương Thị K cùng với bà Nguyễn Thị Bích Đ có CMND giả.
Điều nguy hiểm là vụ việc chỉ bị phát hiện và lập biên bản khi công chứng viên kiểm tra bộ hồ sơ gốc của hợp đồng thế chấp tài sản từ năm 1994 của bà K cho thấy: Dấu vân tay của hai CMND khác nhau rõ rệt. Vụ việc đang được cơ quan chức năng làm rõ.
Điều đáng nói là tình trạng hồ sơ, giấy tờ giả mà các tổ chức công chứng phát hiện là do “cảm tính” nghề nghiệp mách bảo chứ bằng mắt thường không thể phân biệt đâu là thật đâu là giả.
Một cán bộ tư pháp công tác tại TP.HCM cho biết: Thời gian qua, giấy tờ tùy thân (CMND, giấy phép lái xe...) bị làm giả rất nhiều.
Nói là giả, nhưng thực chất đó là CMND, giấy phép lái xe thật nhưng do một vài cán bộ, công chức Nhà nước biến chất dùng phôi thật (mẫu giấy tờ đã in sẵn chưa ký tên, đóng dấu) để làm giả cho những ai cần. Nhiều nhất là giấy phép lái xe thật, nhưng không có hồ sơ gốc lưu tại cơ quan Nhà nước, nên hết hạn sử dụng thì không còn giá trị.
Cần liên thông giữa các tổ chức công chứng
TP.HCM đã có mạng ngăn chặn do Sở Tư Pháp quản lý, theo đó các tổ chức công chứng có thể đăng nhập vào mạng này nhằm tìm hiểu tham khảo thông tin về những tài sản bị “chặn” giao dịch. Nhưng vẫn chưa đủ, chưa đảm bảo tính an toàn, bởi TP.HCM có đến 7 PCC và 12 VPCC, vì tất cả tổ chức hành nghề công chứng này đều không liên thông với nhau. Một hồ sơ công chứng ở PCC 1 thì PCC 2 không thể biết được thông tin. Bỏ địa hạt công chứng có ưu điểm của nó, nhưng khuyết điểm là một căn nhà “người không ngay” có thể công chứng bán nhiều lần, ở nhiều tổ chức công chứng khác nhau bằng hồ sơ giả thì quá khó để phát hiện (hoặc do công chứng viên biến chất) thì hậu quả là rất lớn, thiệt hại thuộc về người dân” - một công chứng viên bức xúc.
Ông Phan Văn Cheo, Văn phòng Công chứng Sài Gòn, quận 1, TP.HCM cho biết: Hồ sơ giả hiện nay chủ yếu là CMND, hộ khẩu, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… thậm chí cả tờ khai lệ phí trước bạ…
Tuy không thống kê được con số cụ thể, nhưng theo tìm hiều của chúng tôi, nhiều tổ chức công chứng đều gặp hồ sơ giả nhưng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Nói về chế tài đối với công chứng viên khi vi phạm, ông Nguyễn Quang Thắng nói: Công chứng viên như một “thẩm phán phòng ngừa”, nhằm đảm bảo tính an toàn pháp lý của các văn bản công chứng, đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch... Chính vì vậy, nếu công chứng viên biết được giấy tờ giả mà vẫn tiến hành công chứng thì sẽ bị xử lý hình sự, bồi thường thiệt hại (nếu có)"
Trách nhiệm công chứng viên?
Việc công chứng “lọt” hồ sơ giả là hoàn toàn có thể xảy ra. Trong khi đó, Luật Công chứng quy định: Giá trị pháp lý của văn bản công chứng là rất cao, có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan, có giá trị làm chứng cứ; tình tiết, sự kiện thể hiện trong văn bản đã được công chứng đều không phải chứng minh và được cơ quan Nhà nước thừa nhận, trừ trường hợp bị tòa án tuyên bố vô hiệu.
Điều đáng ngại là việc làm giả hồ sơ công chứng chủ yếu liên quan đến tài sản, thậm chí có những khối tài sản cực lớn, gây thiệt hại không nhỏ cho quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Ngược lại, trách nhiệm của công chứng viên trong những vụ việc công chứng hồ sơ giả xem ra còn bỏ ngỏ, không phải chịu trách nhiệm, ngoại trừ trường hợp biết là giấy tờ giả mà vẫn tiến hành công chứng.
Ngoài ra, hiện không có quy định nào buộc công chứng viên phải tìm cách nhận biết giấy tờ đó là giả. Chính vì vậy, ai làm giả hồ sơ, giấy tờ nhằm mục đích lừa đảo người khác nếu bị phát hiện thì người phải chịu trách nhiệm trước pháp luật - một công chứng viên có thâm niên bộc bạch.
Trước thực trạng đó, Công an TP.HCM đã có văn bản phối hợp gửi công an 24 quận, huyện yêu cầu các tổ chức hành nghề công chứng xử lý các vụ sử dụng giấy tờ giả mạo hoặc mạo danh chủ sở hữu trên giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản để tiến hành công chứng.
Liên quan đến vấn đề này, nhiều người làm trong lĩnh vực công chứng cho rằng: “Để có thể hoàn thiện, đảm bảo tính an toàn cho các văn bản công chứng, cần thiết sớm thành lập một trung tâm thông tin công chứng, nối mạng với Trung tâm thông tin Nhà đất, Sở Tài nguyên – môi trường; Nối mạng giữa các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn với nhau một cách nhanh chống, kịp thời chia sẻ thông tin thì lúc đó mới có thể ngăn chặn tình trạng giấy tờ giả ngày càng diễn biến phức tạp”.
Trần Phong

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015

Những điểm mới cơ bản của NĐ số 23/2015/NĐ-CP


Những điểm mới cơ bản của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/1015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Ngày 16/02/1015, Chính phủ ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (sau đây gọi chung là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP), Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 10/4/2015 và thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ; Nghị định số 04/2012/NĐ-CP; Điều 4 của Nghị định số 06/2012/NĐ-CP; các quy định về chứng thực hợp đồng, giao dịch tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. So với các Nghị định nêu trên, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP có một số điểm mới cơ bản sau đây:
1. Về thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực (Điều 5):
1.1. Thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính:
- Việc phân định thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giữa Phòng Tư pháp và UBND cấp xã được căn cứ vào cơ quan cấp giấy tờ, văn bản. Theo đó, Phòng Tư pháp thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận (điểm a khoản 1); UBND cấp xã thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận (điểm a khoản 2 ).
- Để bảo đảm triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014, Nghị định số 23/2015/NĐ-CP (khoản 4) đã quy định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của Công chứng viên trong việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tương đương thẩm quyền của Phòng Tư pháp, trừ việc công chứng bản dịch phải được thực hiện theo quy định của Luật công chứng.
1.2. Thẩm quyền chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản:
Phòng Tư pháp và UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực như nhau, không phân biệt ngôn ngữ của giấy tờ văn bản (điểm b khoản 1, điểm b khoản 2).
1.3. Thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch:
- Phòng Tư pháp và UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản như nhau, không giới hạn về giá trị của tài sản (điểm d khoản 1, điểm c khoản 2).
- Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 (điểm đ khoản 2). Ủy ban nhân dân cấp huyện tiếp tục thực hiện chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở tại đô thị theo quy định tại Điều 93 của Luật Nhà ở năm 2005 cho đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2015 (khoản 2 Điều 47).
2. Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức tiếp nhận bản sao (Điều 6):
Trường hợp pháp luật quy định nộp bản sao thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận bản sao, không được yêu cầu bản sao có chứng thực nhưng có quyền yêu cầu xuất trình bản chính để đối chiếu. Người đối chiếu có trách nhiệm xác nhận tính chính xác của bản sao so với bản chính (khoản 1).
3. Về thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực (Điều 7):
Thời hạn thực hiện yêu cầu chứng thực phải được bảo đảm ngay trong ngày cơ quan, tổ chức tiếp nhận yêu cầu hoặc trong ngày làm việc tiếp theo, nếu tiếp nhận yêu cầu sau 15 giờ. Một số trường hợp được kéo dài thời hạn quy định cụ thể tại Điều 21, 33 và Điều 37 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
4. Sổ chứng thực (khoản 3 Điều 13):
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc chứng thực thì phải bảo đảm đầy đủ nội dung theo mẫu sổ chứng thực ban hành kèm theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Định kỳ hàng tháng, cơ quan, tổ chức thực hiện chứng thực phải in và đóng thành sổ, đóng dấu giáp lai; đến hết ngày 31 tháng 12 hằng năm thì ghép chung thành 01 (một) sổ chứng thực theo từng loại việc chứng thực đã thực hiện trong 01 (một) năm. Việc lập sổ, ghi số chứng thực và khóa sổ được thực hiện theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 13.
5. Về chế độ lưu trữ (Điều 14):
- Thời hạn lưu trữ giấy tờ, văn bản đã được chứng thực chữ ký, chứng thực chữ ký người dịch là 02 năm. Thời hạn lưu trữ bản chính hợp đồng, giao dịch kèm theo hồ sơ là 20 năm
- Đối với trường hợp chứng thực chữ ký của người tiến hành giám định trong văn bản kết luận giám định tư pháp, chứng thực bản sao từ bản chính thì không lưu trữ.
6. Chi phí khác (Điều 15):
Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực đề nghị cơ quan thực hiện chứng thực in, chụp, đánh máy giấy tờ, văn bản thì phải nộp chi phí để thực hiện việc đó. Ở trong nước, mức trần chi phí do UBND cấp tỉnh quy định trên cơ sở thực tế của địa phương, ở nước ngoài, mức chi phí do Trưởng Cơ quan đại diện quy định trên cơ sở thực tế của địa bàn.
7. Việc chứng thực bản sao từ bản chính:
- Người yêu cầu chứng thực bản sao phải chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của bản chính giấy tờ, văn bản dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao; không được yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản quy định tại Điều 22 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao đúng với bản chính (Điều 19).
- Trong trường hợp bản chính giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận thì phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật trước khi yêu cầu chứng thực bản sao; trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại (khoản 1 Điều 20).
- Trường hợp người yêu cầu chứng thực chỉ xuất trình bản chính thì cơ quan, tổ chức tiến hành chụp từ bản chính để thực hiện chứng thực, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức không có phương tiện để chụp (khoản 2 Điều 20).
- Bản chính giấy tờ, văn bản không được dùng làm cơ sở để chứng thực bản sao (Điều 22):

  • Bản chính bị tẩy xóa, sửa chữa, thêm, bớt nội dung không hợp lệ. + Bản chính bị hư hỏng, cũ nát, không xác định được nội dung.
  • Bản chính đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc không đóng dấu mật nhưng ghi rõ không được sao chụp.
  • Bản chính có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; tuyên truyền, kích động chiến tranh, chống chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử của dân tộc Việt Nam; xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, tổ chức; vi phạm quyền công dân.
  • Bản chính do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
  • Giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập nhưng không có xác nhận và đóng dấu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

8. Việc chứng thực chữ ký:
- Người yêu cầu chứng thực chữ ký phải chịu trách nhiệm về nội dung của giấy tờ, văn bản mà mình ký để yêu cầu chứng thực chữ ký; không được yêu cầu chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản có nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 22 và Khoản 4 Điều 25 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người yêu cầu chứng thực trong giấy tờ, văn bản (Điều 23).
- Đối với trường hợp chứng thực chữ ký tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông thì công chức tiếp nhận hồ sơ kiểm tra các giấy tờ, nếu nhận thấy người yêu cầu chứng thực có đủ điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 24 thì đề nghị người yêu cầu chứng thực ký vào giấy tờ cần chứng thực và chuyển cho người có thẩm quyền ký chứng thực (khoản 3 Điều 24).
- Thủ tục chứng thực chữ ký quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 24 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP cũng được áp dụng đối với các trường hợp: chứng thực chữ ký của nhiều người trong cùng một giấy tờ, văn bản; chứng thực chữ ký của người khai lý lịch cá nhân; chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản do cá nhân tự lập theo quy định của pháp luật; chứng thực chữ ký trong Giấy ủy quyền đối với trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền và không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản (khoản 4 Điều 24).
- Trường hợp không được chứng thực chữ ký (Điều 25): + Tại thời điểm chứng thực, người yêu cầu chứng thực chữ ký không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
  • Người yêu cầu chứng thực chữ ký xuất trình Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu không còn giá trị sử dụng hoặc giả mạo. + Giấy tờ, văn bản mà người yêu cầu chứng thực ký vào có nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 22 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
  • Giấy tờ, văn bản có nội dung là hợp đồng, giao dịch, trừ các trường hợp quy định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP hoặc trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Áp dụng trong trường hợp đặc biệt (Điều 26): Việc chứng thực chữ ký quy định tại các Điều 23, 24 và trường hợp không được chứng thực chữ ký tại Điều 25 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP cũng được áp dụng trong trường hợp chứng thực điểm chỉ khi người yêu cầu chứng thực chữ ký không ký được và trường hợp người yêu cầu chứng thực không thể ký, điểm chỉ được. Tùy theo từng trường hợp, nội dung lời chứng được ghi theo mẫu quy định tại Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
9. Người dịch và việc chứng thực chữ ký người dịch:
- Cộng tác viên dịch thuật (Điều 28):
+ Người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định tại Điều 27 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP được làm cộng tác viên dịch thuật của Phòng Tư pháp trong phạm vi cả nước. Phòng Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra tiêu chuẩn, điều kiện của cộng tác viên dịch thuật và lập danh sách cộng tác viên dịch thuật của phòng, báo cáo Sở Tư pháp phê duyệt.
+ Trên cơ sở danh sách cộng tác viên dịch thuật đã được Sở Tư pháp phê duyệt, Phòng Tư pháp niêm yết công khai tại trụ sở của Phòng Tư pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu chứng thực trong việc liên hệ với người dịch.
- Người dịch phải chịu trách nhiệm trước khách hàng, trước cơ quan thực hiện chứng thực về tính chính xác của nội dung bản dịch; không được dịch những giấy tờ, văn bản quy định tại Điều 32 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP để yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch. Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về tính xác thực về chữ ký của người dịch trong bản dịch (Điều 30).
- Người không phải là cộng tác viên dịch thuật của Phòng Tư pháp nhưng có đủ tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch theo quy định tại Điều 27 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP thì có quyền tự dịch giấy tờ, văn bản phục vụ mục đích cá nhân và yêu cầu chứng thực chữ ký trên bản dịch (khoản 2 Điều 31).
- Giấy tờ, văn bản không được dịch để chứng thực chữ ký người dịch (Điều 32):

  • Giấy tờ, văn bản đã bị tẩy xóa, sửa chữa; thêm, bớt nội dung không hợp lệ.
  • Giấy tờ, văn bản bị hư hỏng, cũ nát không xác định được nội dung.
  • Giấy tờ, văn bản đóng dấu mật của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc không đóng dấu mật nhưng ghi rõ không được dịch.
  • Giấy tờ, văn bản có nội dung quy định tại Khoản 4 Điều 22 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.
  • Giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp, công chứng hoặc chứng nhận chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP.

10. Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch:
- Người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; tính hợp lệ, hợp pháp của các giấy tờ quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 36 của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP. Người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch (Điều 35).
- Quy định chung một thủ tục chứng thực hợp đồng, giao dịch, mà không có quy định riêng về chứng thực một số hợp đồng, giao dịch như Nghị định số 75/2000/NĐ-CP.
- Đối với những địa bàn cấp huyện, cấp xã đã chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng, mà hợp đồng, giao dịch trước đó được chứng thực tại UBND cấp huyện, cấp xã thì việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, sửa lỗi sai sót trong khi ghi chép, đánh máy, in hợp đồng, giao dịch vẫn được thực hiện tại UBND cấp huyện, cấp xã, nơi đã thực hiện chứng thực trước đây (khoản 1 Điều 47).
11. Các mẫu lời chứng ban hành kèm theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP:
- Lời chứng chứng thực bản sao từ bản chính;
- Lời chứng chứng thực chữ ký bao gồm: Lời chứng chứng thực chữ ký của một người trong một giấy tờ, văn bản; Lời chứng chứng thực chữ ký của nhiều người trong một giấy tờ, văn bản; Lời chứng chứng thực điểm chỉ; Lời chứng chứng thực trong trường hợp không thể ký, điểm chỉ được;
- Lời chứng chứng thực chữ ký người dịch;
- Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch bao gồm: Lời chứng chứng thực hợp đồng, giao dịch; Lời chứng chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản; Lời chứng chứng thực văn bản khai nhận di sản; Lời chứng chứng thực di chúc; Lời chứng chứng thực văn bản từ chối nhận di sản./.
Tác giả: Hoàng Lan

Hồ sơ giả lọt lưới công chứng

Hồ sơ giả 'lọt lưới' công chứng (phần 3)

Công chứng sai phải bồi thường


Luật quy định tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của họ gây ra cho người yêu cầu công chứng khi công chứng sai, song thực tế việc đòi bồi thường không hề đơn giản.
Công chứng sai phải bồi thường Bị cáo Phan Thanh Vân, nguyên công chứng viên Phòng Công chứng số 2 (phải) và Dương Ngọc Phượng tại tòa - Ảnh: Lê Nga

Theo ông Phan Văn Cheo, Chủ tịch Hội Công chứng TP.HCM, khi giao dịch trúng phải hồ sơ giả, phần thiệt thòi luôn thuộc về người mua tài sản, bên cho vay... Nhiều nạn nhân của giấy tờ giả đều ngao ngán bởi họ không thể phân biệt đâu là giấy tờ thật, đâu là giấy tờ giả nên phải cậy nhờ công chứng. Thế nhưng, khi giấy tờ giả “lọt lưới” công chứng thì người dân không biết đi đâu để gõ cửa.
Không giải quyết mới khởi kiện
Trở lại vụ việc anh Ninh Quang M. (ngụ Q.Bình Thạnh) bỏ 500 triệu đồng mua phải chủ quyền giả căn nhà 325/27/24A Phú Định, P.16, Q.8, TP.HCM. sau khi biết bị lừa, anh M. làm đơn khiếu nại, tố cáo khắp nơi, nhưng vẫn chưa được bảo vệ quyền lợi. “Người dân bình thường như tôi làm sao có thể biết được giấy CMND, chủ quyền nhà là giả hay thật. Vì thế, khi ký công chứng tại Phòng Công chứng (PCC) số 7, thấy công chứng viên (CCV) kiểm tra hồ sơ, giấy tờ thì tôi yên tâm người chủ nhà là thật, giấy tờ nhà là thật... Vậy trách nhiệm của CCV ở đâu khi chứng phải hồ sơ giả?”, anh M. bức xúc.
Tương tự, ông Ngô Văn Hát (người bỏ 4 tỉ đồng mua phải 2 sổ đỏ giả ở Hóc Môn) bức xúc: “Nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thật) đang thế chấp cho ngân hàng thì bà Nguyễn Thị Thanh Loan (đang bị truy nã - PV) không thể có bản gốc xuất trình cho CCV để đối chiếu. Vậy chắc chắn bà Loan sử dụng giấy tờ giả chuyển nhượng, nhưng CCV vẫn ký chứng nhận trên hợp đồng, tạo điều kiện cho bà Loan lừa tiền của tôi. Từ khi xảy ra thiệt hại đến nay, tôi đã nhiều lần liên hệ và yêu cầu bồi thường nhưng lãnh đạo PCC số 5 vẫn thoái thác trách nhiệm khiến tôi vô cùng bức xúc”.
Trước thiệt hại này, ông Hát đã khởi kiện PCC số 5 ra tòa, yêu cầu phải liên đới với CCV bồi thường cho ông hơn 4,9 tỉ đồng (tính cả lãi suất). Còn ông Đỗ Hà Hồng, Trưởng phòng PCC số 5, cho rằng: “Chờ tòa án quyết định CCV có lỗi hay không, mức độ lỗi đến đâu... Khi đó mình mới xác định lỗi của CCV để xử lý theo quy định của pháp luật, kể cả việc bồi thường theo quy định của luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước”.
Siết bảo hiểm nghề nghiệp cho CCV
Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM, cho biết theo quy định tại điều 32 luật Công chứng năm 2006 thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do lỗi mà CCV của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng. “Mức độ bồi thường tới đâu sẽ do tòa án quyết định, dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa lỗi của tổ chức công chứng và thiệt hại mà người khác phải gánh chịu. Về trách nhiệm mua bảo hiểm nghề nghiệp cho CCV thì tại khoản 7 điều 32 luật Công chứng năm 2006 quy định, văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV của tổ chức mình. Tuy nhiên, do luật quy định còn chung chung, chưa có hướng dẫn cụ thể nên việc triển khai mua bảo hiểm cho CCV còn gặp nhiều lúng túng”, ông Hậu nói.
Cũng theo luật sư Nguyễn Văn Hậu, hiện có nhiều vụ án xét xử người sử dụng giấy tờ giả qua mặt công chứng để lừa đảo. Ngoài mức phạt tù, tòa án thường yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền chiếm đoạt mà chưa quan tâm đến trách nhiệm của tổ chức công chứng, cụ thể là lỗi từ CCV. Do đó, khi tuyên phần dân sự, tòa án cần phải xem xét trách nhiệm của CCV để buộc tổ chức công chứng có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại.
Theo luật sư Trịnh Thanh (Văn phòng luật sư Người Nghèo, TP.HCM), luật Công chứng năm 2014 (Quốc hội thông qua ngày 20.6.2014, có hiệu lực từ 1.1.2015) quy định khá rõ về trách nhiệm bồi thường trong hoạt động công chứng. “Tại điều 37 quy định bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của CCV là loại hình bảo hiểm bắt buộc, phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng. Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho CCV hành nghề tại tổ chức mình. Về trách nhiệm bồi thường, điều 38 quy định tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. CCV, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật...”, luật sư Trịnh Thanh nói.
Công chứng ẩu, lãnh án tù
Tháng 9.2013, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM tuyên phạt Dương Ngọc Phượng (35 tuổi, ngụ Bình Dương) 18 năm tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và giảm án cho Phan Thanh Vân (nguyên CCV thuộc PCC số 2, TP.HCM) xuống còn 5 năm tù về tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Theo hồ sơ, từ tháng 10.2007 đến tháng 9.2009, Phượng cho một số cá nhân vay tiền hoặc nhận làm dịch vụ giấy tờ nhà đất. Từ đó, nhiều cá nhân giao giấy tờ nhà bản chính cho Phượng cất giữ. Sau đó, Phượng nhờ người đóng giả chủ nhà đến công chứng ký hợp đồng bán nhà. Do có mối quen biết với Vân nên Phượng chọn PCC số 2 để công chứng hợp đồng. Tại đây, Vân không trực tiếp kiểm tra giấy tờ tùy thân của bên bán, không cho các bên ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt CCV nên không phát hiện được việc Phượng giả mạo. Từ đó, Phượng đã làm giả trót lọt 6 trường hợp rồi dùng giấy tờ của những căn nhà trên thế chấp vay tiền tại ngân hàng, chiếm đoạt của ngân hàng hơn 4 tỉ đồng.
Hoàng Tuấn - Lê Nga

Hồ sơ giả lọt lưới công chứng

Hồ sơ giả 'lọt lưới' công chứng (phần 2) - Phát hiện theo cảm tính


TAND Q.Gò Vấp (TP.HCM) đang thụ lý đơn của ông Ngô Văn Hát (46 tuổi, ngụ H.Hóc Môn, TP.HCM) khởi kiện Phòng Công chứng số 5 về việc thiếu kiểm tra tính xác thực của hồ sơ, gây thiệt hại trên 4 tỉ đồng.
Phòng Công chứng số 5, nơi đang đối diện với vụ kiện vì để hồ sơ giả “lọt lưới” - Ảnh: H.T
Nơi phát hiện, nơi không
Theo đơn khởi kiện, ngày 12.10.2011, ông Hát ký hợp đồng với bà Nguyễn Thị Thanh Loan (40 tuổi, ngụ xã Thới Tam Thôn, H.Hóc Môn, TP.HCM) chuyển nhượng 2 quyền sử dụng đất diện tích gần 1.000 m2 tại H.Hóc Môn và được công chứng viên (CCV) Phòng Công chứng (PCC) số 5 ký chứng nhận vào hợp đồng chuyển nhượng. “Sau khi thanh toán trên 4 tỉ đồng và hết thời hạn chuộc lại tài sản như đã thỏa thuận trong hợp đồng, bà Loan xin cho gia hạn thêm thời gian, đồng thời chuyển nhượng cho tôi thêm một căn nhà. Sau khi bàn bạc, tôi và bà Loan đã đồng ý thanh lý các hợp đồng ngày 12.10.2011 và hẹn ký hợp đồng mới tại PCC số 4”, ông Hát cho biết.
Ngày 20.3.2012, ông Hát và bà Loan đến PCC số 4 (Q.Tân Bình) thì bị CCV phát hiện các giấy tờ nêu trên (2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và 1 giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở) đều là giấy tờ giả. Bại lộ, bà Loan “cao bay xa chạy” nên vào ngày 8.12.2013, Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM đã phát lệnh truy nã bà này về hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.
Tương tự, căn nhà số 15 Phan Đình Phùng, P.17 (Q.Phú Nhuận) của ông Trần Văn Thời và bà Lê Thị Hay xây cất vào năm 1972. Sau khi ông bà qua đời, căn nhà này cho 8 người con thừa kế, trong đó có ông Trần Quốc Dũng (49 tuổi, ngụ Q.Phú Nhuận). Đến năm 2009, ông Dũng đã nhờ một người tên Hạnh (không rõ lai lịch) làm giả giấy chủ quyền và tờ khai lệ phí trước bạ ngày 25.1.2009 đối với căn nhà nói trên. Ngày 10.9.2009, ông Dũng đã đem giấy tờ giả nói trên đến Văn phòng công chứng (VPCC) Bến Thành ký hợp đồng cho ông H.T.T thuê nhà với giá 1 triệu đồng/tháng trong vòng 3 năm (từ 20.9.2009 đến 20.9.2012 với điều kiện ông T. đặt cọc cho ông Dũng 350 triệu đồng). Kiểm tra giấy tờ, CCV tiến hành công chứng. Khi chưa hết thời hạn, người nhà của ông Dũng đã đuổi ông T. ra khỏi nhà với lý do ông Dũng đã làm giấy tờ giả để ký hợp đồng cho thuê nhà. Ông T. quay sang đòi tiền đặt cọc thì ông Dũng tìm cách tránh né.
Chưa hết, ngày 29.10.2009, ông Dũng tiếp tục dùng giấy tờ căn nhà này đến PCC số 4 thế chấp vay tiền, thì bị CCV phát hiện làm giả nên chuyển hồ sơ qua Công an Q.Tân Bình điều tra. Cuối năm 2013, TAND TP.HCM tuyên phạt ông Trần Quốc Dũng 2 năm tù về tội “làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Phát hiện nhờ... kinh nghiệm
Tại PCC số 4, CCV Hoàng Thị Kim Tuyến cho biết đã phát hiện ra trên 10 vụ sử dụng hồ sơ giả đến giao dịch. Đề cập đến việc phát hiện vụ bà Nguyễn Thị Thanh Loan sử dụng hồ sơ giả đến giao dịch với ông Ngô Văn Hát tại PCC số 4 (PCC số 5 không phát hiện), bà Tuyến cho biết: “Quá trình kiểm tra hồ sơ tôi phát hiện màu giấy (2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và 1 giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở) có vẻ tươi hơn giấy thật; chữ ký cơ quan có thẩm quyền không liền nét (do sử dụng máy scan); số sê ri trên sổ đỏ sử dụng in mà không phải đóng dấu chìm như giấy thật. Đặc biệt, trong trang bổ sung của sổ đỏ, tôi phát hiện ra mỏng hơn giấy thật, tờ trước bạ thì ngả qua màu cam (đúng ra phải đỏ)… Nghi ngờ đây là giấy tờ giả, tôi đề nghị giữ lại để nhờ cơ quan xác minh. Đến hẹn, bà Loan không đến PCC, mà chỉ có mình ông Hát. Ông Hát cũng cho biết bà Loan thừa nhận làm giả giấy tờ nên đã làm đơn tố cáo đến công an. Sau đó, Công an Q.Tân Bình cũng đã đến PCC số 4 thu giữ toàn bộ hồ sơ để tiến hành điều tra”. Việc phát hiện ra nhiều vụ hồ sơ giả đến giao dịch, bà Tuyến chỉ nói: “Cái này chủ yếu nhờ kinh nghiệm nghiệp vụ, khả năng phán đoán… mà thôi”.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Trí Hòa, Trưởng PCC số 4, thì hầu như tháng nào CCV cũng phát hiện từ 1 - 2 vụ sử dụng hồ sơ giả đến giao dịch tại PCC số 4. “Hiện nay, các đối tượng làm giả giấy tờ rất tinh, rất khó phát hiện. Nếu như CCV thiếu kinh nghiệm, thì rất dễ bị các đối tượng qua mặt”, ông Hòa nhận xét. Đề cập đến kinh nghiệm, ông Hòa nói: “Rất vô chừng, vì không có cái chung. Chủ yếu là kinh nghiệm phán đoán, chẳng hạn như có giai đoạn trong giấy hồng nhà nước sử dụng Tờ khai thuế trước bạ, sau đó đổi qua Thông báo nộp tiền sử dụng đất. Hay như giấy CMND có giai đoạn in số đen, có giai đoạn thì in số đỏ… thì CCV phải nhớ để phát hiện việc nhầm lẫn của người làm giả. Nói chung cũng mang tính cảm quan, khi nghi ngờ thì nhờ cơ quan chức năng xác minh. Nhưng cũng có hồ sơ nghi ngờ giả, nhưng xác minh lại thật”.
Nỗi đau đầu của công chứng viên
Về tình trạng giấy tờ giả tràn lan hiện nay, ông Phan Văn Cheo, Chủ tịch Hội Công chứng TP.HCM, nguyên Trưởng phòng PCC số 1, cho biết đây là nỗi lo sợ và đau đầu của CCV vì chỉ kiểm tra bằng mắt thường và kinh nghiệm là chính. Theo ông Cheo, hiện nay đối tượng lừa đảo bằng hồ sơ giả nhiều nhất là tình trạng mua bán xe và cầm cố, thế chấp tài sản. Trước tình hình này, ông Cheo kiến nghị: “Các ban ngành nên xây dựng, ban hành những giấy tờ chống làm giả kỹ thuật cao để hạn chế việc làm giả. Các ban ngành cần sớm nối mạng với nhau để nhanh chóng tra cứu, cung cấp thông tin về tài sản đảm bảo. Cần sớm có hệ thống liên thông giữa cơ quan đăng ký cấp giấy với các tổ chức công chứng để CCV dễ dàng tra cứu, kiểm tra nguồn gốc tài sản. Song song đó, để tránh bị lừa thì đối tượng tham gia giao dịch phải thẩm tra tài sản, xác minh tính pháp lý trước khi giao dịch. Nếu không có điều kiện thì người mua, người nhận thế chấp có thể yêu cầu CCV đi xác minh tài sản trước khi giao dịch để đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất chuyện giả mạo bị lừa”.
Lê Nga
Hoàng Tuấn - Đàm Huy

 

Nhận bản tin

Thư điện tử

congchungxuanloc@gmail.com

Nhân Sự