CÔNG CHỨNG XUÂN LỘC

Thủ tục công chứng

Chi tiết

Dịch vụ công chứng - Chứng thực - Dịch thuật

Chi tiết

Phí công chứng

Chi tiết

Tư vấn-Hổ trợ

Chi tiết

Thứ Tư, 22 tháng 6, 2016

Công chứng chống chọi với giấy tờ giả

Vừa qua, các phòng công chứng ở TP.HCM phát hiện nhiều trường hợp làm giả giấy tờ, hợp đồng mua bán...

Thực hiện giám định hồ sơ tại một văn phòng công chứng - Ảnh: Phan Thương
Gần đây, Văn phòng Công chứng (VPCC) Hoàng Xuân (Q.5, TP.HCM) chuyển người và tang vật là các giấy tờ giả cho Cơ quan CSĐT Công an Q.5 để xử lý. VPCC này tiếp nhận yêu cầu công chứng hợp đồng mua bán nhà của một người tên P.T.N, để nhận cọc 1 tỉ đồng bán căn nhà ở đường Đinh Bộ Lĩnh, P.26, Q.Bình Thạnh.
Sau khi kiểm tra giấy tờ, công chứng viên (CCV) nghi ngờ, yêu cầu lập biên bản, sau đó mới tá hỏa chính con trai bà N. đã làm giả CMND, hộ khẩu sao y, giấy xác nhận độc thân, thuê người giả bà N. và đã lừa được của người mua nhà 650 triệu đồng.
“Rất may, khi tôi vừa về VPCC thì gặp bộ hồ sơ này nên chính tôi kiểm tra luôn. Bằng cảm nhận của mình qua xem hồ sơ và nhìn ánh mắt, thái độ của vị khách hàng, tôi có nghi ngờ ngay” - ông Hoàng Xuân Ngụ, Trưởng VPCC Hoàng Xuân chia sẻ.
Không may mắn như bà N., ông Ngụ kể thêm một trường hợp oái oăm khác, đó là chủ nhà cho thuê căn nhà ở Lê Đại Hành, P.11, Q.11 rồi bị “cuỗm” mất. Người thuê nhà mượn một bộ chủ quyền nhà nói là photocopy để kiểm tra rồi làm giả, bán nhà luôn nhưng chủ nhà không hề hay biết. Khi chủ nhà lên VPCC để làm ủy quyền cho một giao dịch khác thì CCV kiểm tra trên hệ thống mạng mới biết căn nhà được một phòng công chứng (PCC) công chứng mua bán cho người khác.
Tương tự, ông Nguyễn Văn Hòa, Phó trưởng PCC số 1 (Q.1, TP.HCM), cho biết cách đây 3 tháng, bản thân ông cũng phát hiện một trường hợp yêu cầu công chứng hợp đồng mua bán ô tô không hợp lệ - giấy tờ xe thật, CMND thật nhưng người bán không phải chủ sở hữu xe. “Khi nghi ngờ, tôi đề nghị người đi bán xe lăn tay thì phát hiện dấu vân tay không trùng khớp với CMND nên mời Công an P.Bến Nghé đến lập biên bản”, ông Hòa nói.
Theo thống kê của Sở Tư pháp TP.HCM, các hành vi giả mạo phổ biến là giả mạo giấy tờ tùy thân, hợp đồng mua bán, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, giả mạo người yêu cầu công chứng.
Bà Phan Thị Bình Thuận, Phó giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, cho biết: “Hành vi sử dụng giấy tờ giả hoặc mạo danh chủ thể được thực hiện một cách rất tinh vi, việc phát hiện giấy tờ làm giả chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân và... may mắn. Nếu CCV không có chuyên môn và không có phương tiện hỗ trợ thì rất khó phát hiện”.
Để kịp thời ngăn ngừa và kiểm soát nạn giấy tờ giả, qua mặt được CCV, bà Thuận nói: "Về phía Sở Tư pháp, trong thời gian tới sẽ hoàn thiện các chương trình phần mềm bảo đảm kết nối chặt chẽ thông tin giữa tất cả các tổ chức hành nghề công chứng; kết nối và chia sẻ với các cơ quan quản lý liên quan như các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận huyện, TP, cơ quan thuế…".
Lập bộ phận “Nghiệp vụ giám định xác thực”
Đó là biện pháp VPCC Gia Định (TP.HCM) đang thử nghiệm nhằm phát hiện giấy tờ, hồ sơ bị làm giả. Ông Trần Quốc Cảnh, giám định viên cao cấp Phòng Nghiệp vụ giám định xác thực VPCC này cho biết trong 2 tháng đầu thử nghiệm (bắt đầu từ 1.1.2015) nơi đây đã phát hiện hơn 20 hồ sơ giả trong số 270 hồ sơ thế chấp tại một ngân hàng. “Còn với CMND, bằng cấp giả, khi CCV nghi ngờ, yêu cầu phải qua phòng giám định thì đa phần khách hàng “bỏ của chạy lấy người”, ông Cảnh nói.
Theo ông Trần Quốc Phòng, Trưởng VPCC Gia Định, việc lập phòng nghiệp vụ trên là để bảo vệ khách hàng, bảo vệ cả CCV, là một bước trong quy trình công chứng nên làm miễn phí cho khách hàng.
Phan Thương

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2016

Hộ khẩu tạo ra nhiều bất công

Hộ khẩu làm ảnh hưởng tới trẻ em về BHYT, giáo dục dẫn đến hạn chế khả năng thay đổi địa vị xã hội của các thế hệ tương lai.
“Những người tạm trú gặp phải nhiều rào cản khi tiếp cận dịch vụ và việc làm trong khối Nhà nước, tạo ra phí tổn xã hội và bất công”. Nhận định này được đưa ra tại hội thảo công bố báo cáo nghiên cứu hệ thống đăng ký hộ khẩu ở Việt Nam do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức sáng 16-6.
Gánh nặng hộ khẩu đè người nghèo
“Gia đình ông T. tạm trú ở Đà Nẵng đã 10 năm nay. Ông T. là công nhân, mẹ ông 75 tuổi và mắc bệnh. Tổ trưởng tổ dân phố đề nghị phường xét, đưa gia đình ông vào danh sách hộ nghèo nhưng phường từ chối vì gia đình ông T. không có hộ khẩu. Vì thế, ông T. không được bảo hiểm y tế (BHYT) miễn phí ở Đà Nẵng” - ông Vũ Hoàng Linh, chuyên gia kinh tế ở nhóm toàn cầu về nghèo và công bằng xã hội, khu vực châu Á-Thái Bình Dương, WB, kể.
Vì vậy theo ông Linh, cứ hai tuần một lần, ông T. lại phải xin nghỉ phép để đưa mẹ về Quảng Nam - nơi có hộ khẩu lấy thuốc để được BHYT chi trả thuốc men.
Tuy vậy, đây không phải là trường hợp cá biệt. Ông Linh thuật lại lời một nữ công nhân khác tạm trú ở Đà Nẵng: “Tôi vẫn có thể mua BHYT ở Đà Nẵng. Nhưng hộ khẩu của tôi ở Huế nên tôi phải về Huế để khám sức khỏe, nếu không tôi phải trả 70% chi phí. Mức đó là quá nặng đối với tôi”.
Hộ khẩu không chỉ gây khó cho người dân về vấn đề BHYT mà còn khiến họ mất thêm chi phí trong việc tiếp cận các dịch vụ hành chính. Cạnh đó, người tạm trú còn phải trả tiền điện, nước cao hơn người có hộ khẩu. “Không có hộ khẩu khiến người tạm trú không sử dụng một số thủ tục giấy tờ tại nơi cư trú mà phải về nơi thường trú làm thủ tục. Điều này gây tốn kém tiền bạc, thời gian. Một công nhân ở Sóc Trăng làm việc tại TP.HCM không có hộ khẩu nên phải về lại tỉnh làm thủ tục xin xác nhận nhiều loại giấy tờ. Tiền đi lại mất 260.000 đồng và cô này phải xin phép nghỉ ba ngày làm việc” - ông Linh dẫn chứng.
Làm thủ tục cấp hộ khẩu tại TP.HCM. Ảnh: HOÀNG TRIỀU
Mạnh tay bỏ hộ khẩu?
Chuyên gia kinh tế Gabriel Demombynes của WB kể ông đọc được câu chuyện về một nữ cử nhân y khoa. Người này sau khi tốt nghiệp bằng giỏi đã nộp đơn vào một số bệnh viện ở TP.HCM nhưng đến đâu cũng gặp câu hỏi: “Có hộ khẩu TP.HCM không?”. Do nữ cử nhân này không có hộ khẩu nên nhiều bệnh viện từ chối nhận. “Hộ khẩu đã tạo ra bất bình đẳng về cơ hội việc làm” - ông Gabriel nhận định.
Tương tự, trong nhận định của báo cáo về hộ khẩu cũng cho thấy những người tạm trú thường khó tiếp cận việc làm ở khu vực công và xu hướng này ngày càng tăng. “Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng đều đặt điều kiện yêu cầu hộ khẩu bắt buộc cho các vị trí công chức thông thường. Yêu cầu này chỉ được miễn đối với những trường hợp đặc biệt” - ông Linh thông tin thêm.
Ông Đặng Nguyên Anh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhận xét đến nay hộ khẩu vẫn có mặt trong hầu hết các lĩnh vực, dịch vụ mà người dân tiếp cận. Nó đang cản trở người dân tiếp cận những dịch vụ công hoặc trong mối quan hệ với chính quyền. “Những rào cản cũng gây ra ảnh hưởng tới trẻ em về BHYT, giáo dục, làm hạn chế khả năng thay đổi địa vị xã hội của các thế hệ tương lai nên đã đến lúc phải cải cách” - ông Anh đề nghị.
Hộ khẩu từng gây nhiều “ám ảnh”
Hộ khẩu là nỗi ám ảnh đối với bản thân và gia đình tôi trong nhiều năm trước đây. Vốn là cán bộ của Bộ GD&ĐT, năm 1978, tôi được cử lên Lai Châu công tác. Khi đó, tôi phải cắt hộ khẩu khỏi Hà Nội, kéo theo là phải cắt thêm sổ gạo, sổ căn tin.
Vợ tôi được cử lên công tác ở Phú Thọ cũng thế. Sau này, con tôi sang học tập ở Đông Âu, tôi phải chú ý giữ lại cẩn thận các chứng từ về sổ gạo, sổ hộ khẩu… phòng khi con trở về sẽ dễ dàng nhập hộ khẩu vào gia đình. Điều đáng mừng là khi con tôi trở về nước năm 2005, tình hình hộ khẩu đã đỡ hơn rất nhiều.
Ông VŨ VĂN ĐỨCTrung tâm Hỗ trợ giáo dục không chính quy và phát triển cộng đồng
Khảo sát về hộ khẩu được thực hiện tại TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng và các tỉnh Bình Dương, Đắk Nông. Số người không có hộ khẩu ở năm tỉnh, thành này khoảng 5,6 triệu người, trong đó TP.HCM có 2,9 triệu người, Bình Dương 1,4 triệu người, Hà Nội 1,3 triệu người, Đà Nẵng 120.000 người và Đắk Nông 40.000 người.
CHÂN LUẬN

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2016

Cắt dán hợp đồng lừa khách hàng, giám đốc bị tù chung thân

Giám đốc chỉ đạo kế toán lấy các hợp đồng mẫu đã ký với đối tác ra soạn thêm số, ngày tháng, địa chỉ nhà, đất rồi cắt, dán, photo và ghép với trang cuối có mộc đỏ của công ty đối tác để đem đi lừa khách hàng...
Chiều 14-6, TAND TP Cần Thơ xử sơ thẩm đã tuyên phạt Trương Văn Kiệt (50 tuổi, ngụ huyện Trà Ôn, Vĩnh Long) tù chung thân, thuộc cấp của Kiệt là Tăng Thông (33 tuổi, ngụ cùng địa phương) ba năm tù treo cùng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, tòa còn tuyên buộc bị cáo Kiệt phải bồi thường cho các bị hại tổng số tiền hơn 5,4 tỉ đồng (gồm cả lãi).
Hai bị cáo Kiệt (trái) và Thông nghe tòa tuyên án chiều 14-6. Ảnh: N.NAM.
Theo tòa, bị cáo Kiệt là chủ mưu thực hiện hành vi phạm tội và chỉ đạo kế toán thực hiện nhưng số tiền chiếm đoạt được bị cáo sử dụng một mình không chia cho kế toán. Con dấu công ty của bị cáo do cơ quan điều tra thu giữ chứ không nằm ở công ty Long Thịnh như bị cáo nại ra.
Bị cáo Kiệt thể hiện thái độ ngoan cố, không khai đồng phạm. Trong khi bị cáo Thông khai rất thành khẩn, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và người liên quan. Bị cáo Thông phạm tội theo sự chỉ đạo của Kiệt, bản thân không được hưởng lợi gì, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo có bệnh nặng nên tòa cho hưởng án treo.
Theo cáo trạng, năm 2012 và 2013, Kiệt là giám đốc công ty TNHH thương mại, xây dựng Trương Hữu Tài (đặt trụ sở tại huyện Trà Ôn, Vĩnh Long) ký bảy hợp đồng với công ty TNHH Long Thịnh để nhận khoán vật tư, nhân công xây thô nhà phố liền kề. Hình thức thanh toán là công ty Long Thịnh đồng ý ký hợp đồng cho công ty của Kiệt góp vốn nhà thô hoặc nền đất. Kiệt chỉ định theo số lô, nền đã thỏa thuận, bù trừ tiền công ty của Kiệt mua nhà của công ty Long Thịnh…
Quá trình thi công, xây dựng vào khu dân cư Long Thịnh, Kiệt sử dụng căn nhà của Kiệt tự xây dựng trên nền mà công ty Long Thịnh giao cho Kiệt từ hợp đồng góp vốn bán cho nhiều người.
Ngoài ra, Kiệt chỉ đạo kế toán công ty của mình là Tăng Thông lấy các bản hợp đồng mua bán, góp vốn giữa công ty Long Thịnh ký kết với công ty của Kiệt trước đó làm mẫu, rồi tự đánh máy số hợp đồng, ngày tháng, vị trí căn nhà, giá trị căn nhà rồi cắt, dán, photo, lắp ghép vào trang cuối của một trong các bản hợp đồng xây dựng, góp vốn hoặc thi công và lấy dấu mộc công ty Kiệt đóng giáp lai thành bản hợp đồng mua bán, góp vốn hoàn chỉnh. Đồng thời, cả hai bị cáo cùng làm ra nhiều giấy tờ liên quan để tìm người bị hại lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cách thức thực hiện là Kiệt nói với các bị hại rằng nền và nhà trong các hợp đồng này là của Kiệt, do Kiệt đầu tư xây dựng vào công ty Long Thịnh được thanh toán bằng nhà và nền để cấn trừ. Nay Kiệt có nhu cầu bán hoặc cầm cố để vay tiền làm cho nhiều người tin tưởng giao dịch với Kiệt.
Tổng cộng, Kiệt và thuộc cấp đã thực hiện bảy vụ lừa đảo với tổng số tiền gần năm tỉ đồng. Toàn bộ số tiền này, Kiệt chiếm hưởng không chia cho thuộc cấp đồng nào.
Tại tòa, bị cáo Kiệt từ đầu đến cuối phiên xử luôn cho rằng mình không phạm tội, cáo trạng và kết luận điều tra “bao che” cho công ty Long Thịnh. Nhiều hợp đồng có công chứng chứng thực… Bị cáo còn cho rằng những giấy tờ phát sinh sau này là do con dấu của công ty bị cáo tự nhiên “bay” sang công ty Long Thịnh!
Một số bị hại tại tòa cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm của công chứng viên trong các hợp đồng giao dịch giữa bị hại và bị cáo Kiệt. Tuy nhiên, tòa giải thích rằng không thể buộc trách nhiệm công chứng viên vì ở đây Kiệt đã làm giả mọi giấy tờ để “qua mặt” công chứng. Kiểm sát viên cũng giải thích, trường hợp này việc công chứng bị vô hiệu do Kiệt đã lừa dối ngay từ đầu.
NHẪN NAM

Người đủ tiêu chuẩn có thể làm cộng tác viên phiên dịch cho nhiều tổ chức hành nghề công chứng

Ngày 12/5/2016, Báo Pháp Luật Việt Nam có đăng bài “Công chứng viên còn “mắc” trong chứng thực bản sao” phản ánh một số vướng mắc xung quanh thực hiện Luật Công chứng. Ngày 7/6/2016 Cục Bổ trợ tư pháp đã có văn bản gửi Báo Pháp Luật Việt Nam xung quanh bài báo này.

Công văn do Cục trưởng Đỗ Hoàng Yến ký nêu rõ: thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc về nghiên cứu, xử lý phản ánh của Báo Pháp Luật Việt Nam, Cục Bổ trợ tư pháp đã nghiên cứu, báo cáo Thứ trưởng về nội dung phản ánh của Báo. Trên cơ sở chỉ đạo của Thứ trưởng, Cục Bổ trợ thông tin lại như sau:
Về chứng thực bản sao từ bản chính: Nghị định số 23/2015 ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch đã quy định quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu chứng thực: Người yêu cầu chứng thực phải chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp lệ, hợp pháp của giấy tờ, văn bản mà mình yêu cầu chứng thực (khoản 2 Điều 8).
Liên quan đến việc chứng thực bản sao từ bản chính đối với sổ hộ khẩu, hộ chiếu thì tại Điều 7 Thông tư số 20/TT- BTP ngày 29/12/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 23/CP đã hướng dẫn việc sao, chụp từ bản chính để chứng thực bản sao từ bản chính như sau: Bản sao, chụp từ bản chính để thực hiện chứng thực phải có đầy đủ các trang đã ghi thông tin của bản chính.
Ví dụ: Khi yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính sổ hộ khẩu thì phải chụp đầy đủ trang bìa và các trang của sổ đã ghi thông tin liên quan đến các thành viên có tên trong sổ hộ khẩu. Như vậy, khi chứng thực bản sao từ bản chính đối với sổ hộ khẩu, hộ chiếu phải thực hiện sao, chụp tất cả các trang có ghi thông tin của sổ hộ khẩu, hộ chiếu đó.
Về cộng tác viên phiên dịch của tổ chức hành nghề công chứng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Công chứng thì việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện.
Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.
Thông tư số 06/2015/TT- BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng có quy định về việc cộng tác viên phiên dịch ký kết hợp đồng cộng tác với tổ chức hành nghề công chứng, chịu trách nhiệm về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện, có các quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng và theo quy định của pháp luật (Điều 21).
Căn cứ các quy định nêu trên thì công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng bản dịch do cộng tác viên phiên dịch của tổ chức mình dịch.
Tuy nhiên, pháp luật không cấm một người làm cộng tác viên phiên dịch cho nhiều tổ chức hành nghề công chứng. Do đó, một người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Công chứng thì có thể ký hợp đồng làm cộng tác viên phiên dịch cho nhiều tổ chức hành nghề công chứng.
P.V

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

Đại hội Hội công chứng viên lần thứ I

         Sáng 19-12, Hội công chứng viên tỉnh Đồng Nai tổ chức Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2015-2020.
Quang cảnh Đại hội
Quang cảnh Đại hội.
Hội công chứng viên tỉnh Đồng Nai hiện có 24 tổ chức hành nghề công chứng với 55 công chứng viên. Các tổ chức công chứng được phân bố đều khắp, cơ bản đáp ứng yêu cầu công chứng của các tổ chức và cá nhân trong tỉnh.
Đại hội đã bầu bà Nguyễn Thị Hồng Vân, công chứng viên Phòng Công chứng số 4 làm Chủ tịch Hội Công chứng viên tỉnh Đồng Nai nhiệm kỳ I (2015-2020).

Ngọc Liên

Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

QUY ĐỊNH MỚI VỀ LỆ PHÍ CHỨNG THỰC

Ngày 12/10/2015, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 158/2015/TTLT-BTC-BTP quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực hợp đồng, giao dịch, thay thế Thông tư liên tịch số 92/2008/TTLT-BTC-BTP và Thông tư liên tịch số 62/2013/TTLT-BTC-BTP và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/11/2015. Mức thu lệ phí chứng thực được quy định cụ thể như sau:
1. Chứng thực bản sao từ bản chính: 2.000 đồng/trang. Từ trang thứ 03 trở lên thu 1.000 đồng/trang, nhưng mức thu tối đa không quá 200.000 đồng/bản.
2. Chứng thực chữ ký: 10.000 đồng/trường hợp (trường hợp được tính là một hoặc nhiều chữ ký trong một văn bản, giấy tờ).
3. Chứng thực hợp đồng, giao dịch:
- Chứng thực hợp đồng, giao dịch: 30.000 đồng/hợp đồng, giao dịch;
- Chứng thực việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch: 20.000 đồng/hợp đồng, giao dịch;
- Sửa lỗi sai sót trong hợp đồng, giao dịch đã được chứng thực: 10.000 đồng/hợp đồng, giao dịch.
Mức thu lệ phí chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định mới này áp dụng thống nhất cho tất cả các hợp đồng, giao dịch, không phân ra theo loại hợp đồng, giao dịch được chứng thực hoặc tài sản được chứng thực. Đối với cá nhân, hộ gia đình vay vốn tại tổ chức tín dụng để phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ pháp triển nông nghiệp, nông thôn thì không phải nộp lệ phí chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản./.
                                                                                                                                      Đình Khôi

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Chậm đổi bằng lái xe sang PET phải thi lại lý thuyết

Từ ngày 01/01/2016, Thông tư 58/2015/TT-BGTVT Quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ bắt đầu có hiệu lực thi hành.

bằng lái xe pet
Theo đó, Giấy phép lái xe bằng giấy bìa phải được chuyển đổi sang giấy phép lái xe mới bằng vật liệu PET theo lộ trình sau:
- Giấy phép lái xe ô tô và giấy phép lái xe hạng A4: trước ngày 31/12/2016.
- Giấy phép lái xe không thời hạn (các hạng A1, A2, A3): trước ngày 31/12/2020.
Sau 06 tháng theo lộ trình chuyển đổi nêu trên, người có giấy phép lái xe bằng giấy bìa phải sát hạch lại lý thuyết để cấp lại giấy phép lái xe.
Điều 8. Điều kiện đối với người học lái xe
1. Là công dân Việt Nam, người nước ngoài được phép cư trú hoặc đang làm việc, học tập tại Việt Nam.
2. Đủ tuổi (tính đến ngày dự sát hạch lái xe), sức khỏe, trình độ văn hóa theo quy định; đối với người học để nâng hạng giấy phép lái xe, có thể học trước nhưng chỉ được dự sát hạch khi đủ tuổi theo quy định.
3. Người học để nâng hạng giấy phép lái xe phải có đủ thời gian lái xe hoặc hành nghề và số km lái xe an toàn như sau:
a) Hạng B1 (số tự động) lên B1: thời gian lái xe từ 01 năm trở lên và 12.000 km lái xe an toàn trở lên;
b) Hạng B1 lên B2: thời gian lái xe từ 01 năm trở lên và 12.000 km lái xe an toàn trở lên;
c) Hạng C, D, E lên FC: thời gian hành nghề 01 năm trở lên và 50.000 km lái xe an toàn trở lên;
d) Hạng B2 lên C, C lên D, D lên E; các hạng B2, D, E lên hạng F tương ứng: thời gian hành nghề từ 03 năm trở lên và 50.000 km lái xe an toàn trở lên;
đ) Hạng B2 lên D, C lên E: thời gian hành nghề từ 05 năm trở lên và 100.000 km lái xe an toàn trở lên.
4. Người học để nâng hạng giấy phép lái xe lên các hạng D, E phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tương đương trở lên.
Thanh Hữu

 

Nhận bản tin

Thư điện tử

congchungxuanloc@gmail.com

Nhân Sự